BUDDHAM [HOME]           [ĐẠI TẠNG KINH]              [SUTTA PITAKA]


 

 

Giới Thiệu Tạng Kinh Pali

 

 

Nếu như trang mạng này sử dụng và lưu trữ tạng kinh PTS (The Pali Text Social) thì không có chuyện gì phải nói hay giới thiệu cả, bởi vì Hòa Thượng Thích Minh Châu dịch ra tiếng Việt từ tạng kinh này. Nhưng sự thể này không thể xảy ra nơi đây, với lý do duy nhất là tạng kinh PTS này có giữ bản quyền (Copyright) tại Anh Quốc, cho nên có rất nhiều điều bất tiện trong vấn đề lưu trữ hay truyền bá rộng rãi, Ngược lại tạng kinh BJT (The Sri Lanka Buddha Jayanti Tripitaka Series) của Sri-Lanka thì không có giữ bản quyền.

Trang mạng này sử dụng tạng kinh BJT  của Sri-Lanka. Lẽ dĩ nhiên là nội dung cốt lõi giữa các tạng kinh Pali nói chung hay giữa tạng kinh PTS Và tạng kinh BJT nói riêng thì không có gì khác . Điều này được chứng minh rỏ nét trong tạng kinh BJT, bất kỳ một bài kinh nào thậm chí một đoạn của bài kinh nào cũng đều có ghi số trang tương ứng  với tạng kinh PTS, Thí dụ : [BJT Page 776] [PTS Page 332] đôi khi ghi [BJT Page 776] [ Page 332] có nghĩa là bài kinh chúng ta đang đọc nằm trong bộ kinh đó của tang kinh BJT ở trang 776  tương ứng với trang 332 của tạng kinh PTS. Đây là mối quan hệ chặt chẽ giữa các tạng kinh Pali và cũng chính là điều giúp ích  cho Quý Vị nào muốn tra cứu nguồn gốc của bài kinh. Một thí dụ nữa trong Đại Tạng Kinh Việt Nam của HT Thích Minh Châu , khi thấy (Sn25) có nghĩa là ( Sutta Nipata PTS page 25) khi tra cứu ở tạng kinh BJT chúng ta sẽ thấy ( Sutta Nipato [BJT Page 44] [PTS Page 25] ).

Mặc dù nội dung không thay đổi , nhưng mỗi tạng kinh Pali của mỗi quốc gia có sự phân chia khác nhau, cùng một bộ kinh nhưng chứa đựng “số Tập” khác nhau, “Tập” chứ đựng “số Chương” khác nhau, “Chương” chứa đựng “số Phẩm” khác nhau, “Phẩm” chứa đựng “số Bài Kinh” khác nhau, Nhưng chung cuộc thì tổng số bài kinh thống nhất với nhau. Điển hình là Kinh Tương Ưng Bộ, trọn bộ thì  BJT có 55 Chương trong khi PTS thì có 56 Chương, thật ra trong đó có một chương Của BJT bao gồm hai chương của PTS, đó chính Thiên thứ II Chương 1 nghĩa là ( BJT Samyutta Nikāya II.1 = PTS Samyutta Nikāya II. 1+2), lại nữa thậm chí có thể nói một số bài kinh nếu không muốn nói là nhiều bài kinh,có tổng số chữ bằng nhau nhưng mỗi quốc gia phân chia thành “số Tụng Phẩm” khác nhau, Trường hợp này thường thấy trong Kinh Trường Bộ, do đó Quý Vị sẽ không thấy ngạc nhiên trong trường hợp cùng một bản kinh mà phiên bản tiếng Việt có 2 Tụng Phẩm, Tiếng Anh có 3 Tụng Phẩm, Tiếng Sri-Lanka có 4 Tụng Phẩm ..v..v. Nhưng Nội dung  vẫn là nội dung.

Cần nói thêm, trong tạng kinh BJT  hiếm khi thấy ký hiệu ( …Pe…) trong khi ở tạng kinh PTS thì sử dụng ký hiệu này rất thường xuyên, vậy ký hiệu đó là gì? Xin thưa Pe : viết tắt từ chữ peyyāla nghĩa là chỉ đoạn đã bỏ trống, tương đương với ( … ) trong văn viết của Việt ngữ, ký hiệu đó đôi khi biểu thị cho cả hàng chục trang giấy, điều này nói lên tạng kinh PTS làm giảm đi điệp ngữ rất nhiều so với tạng kinh BJT vẫn giữ nguyên điệp ngữ, nói cách khác, thường là một bài kinh của BJT dài hơn so với cùng một bài kinh của PTS, Thí Dụ: bài kinh trung bộ số 50 (DN.50) thì ở trang 776 của tạng BJT, trong khi đó  ở trang 332 của tạng PTS.

Để tiện lợi cho việc tra cứu giữa Tạng Kinh Việt Nam và Tạng Kinh Pali, trang mạng này sử dụng Tạng Kinh BJT, nhưng phân chia mục lục thì dựa theo Tạng Kinh PTS, do đó Quý Vị sẽ không lấy làm lạ khi nhắp chuột (click) vào mục lục như thế này, nhưng trang xuất hiện lại là thế kia, Thí dụ : khi nhắp chuột nơi “XX.Brāmaṇa Vagga “ xuất hiện trang “ 5. Soṇa Vaggo” , đây chẳng qua chỉ  là tên tựa và sự phân chia mục lục khác nhau giữa Tạng Kinh BJT và Tạng Kinh PTS.

 

Toronto, Ontario, CANADA

Hữu Ngân Lý

 

~ooOoo~


Nguyện đem công  đức  phiên bản điện tử 5 bộ Nikaya Việt ngữ cùng với 5 bộ Nikāya Pali hồi

hướng hết thảy chúng sanh, nghe được chánh pháp, thấy được chánh pháp, sống trong

chánh pháp, liễu tri chánh pháp, rốt ráo đều thành tựu quả vị Tối Thượng Bồ Đề.